29+ Mẫu Đèn Hào Quang Trúc Chỉ Thờ Phật Đẹp Nhất
Ngày nay trên các tranh, ảnh, tượng Phật thường được mô phỏng thêm vầng hào quang trên đầu. Để nói lên tầm trí tuệ sáng chói của đâng tối cao, Người đã đạt giác ngộ với trí tuệ, đức độ, tài năng chưa ai sánh bằng. Đèn hào quang thờ Phật được chế tác từ nhiều chất liệu, đa dạng về kích thước cũng như mẫu mã, chủng loại. Trong đó, đèn hào quang thờ Phật được rất nhiều người thích và lựa chọn đó là hào quang in tranh trúc chỉ. Trúc chỉ là một loại giấy nghệ thuật được làm từ nguyên liệu chính là tre, và tùy vào ứng dụng thực tiễn mà có thể sử dụng kết hợp với các nguyên liệu khác như: Trúc, chuối, dâu, mía, lá, cỏ… để tạo ra những sản phẩm độc đáo, hoàn hảo và có tính nghệ thuật cao.
Đèn hào quang trúc chỉ thờ Phật sử dụng nguyên liệu mang hơi hướng truyền thống. Nhưng có sự sáng tạo tinh tế, linh hoạt trong sử dụng nguyên liệu, kết hợp với các hiệu ứng ánh sáng, làm lên sự mới mẻ. Đèn thờ hào quang Phật mặt tranh in họa tiết trúc chỉ có khung gỗ chắc chắn, kèm thanh treo. Kết hợp với đèn led không nhấp nháy, không làm chói mắt, sang trọng, ấm cúng. Khi tắt đèn sáng vân màu rất đẹp, tắt điện tranh vẫn còn màu họa tiết trúc chỉ. Đèn hào quang trúc chỉ thờ Phật tạo cho không gian thờ sự linh thiêng, thanh tinh. Đem lại cảm giác nhẹ nhàng, hoan hỉ, ấm áp khi bước vào nơi thờ tự.
Rước Tài Lộc mời quý khách tham khảo “29+ Mẫu Hào Quang Trúc Chỉ Thờ Phật Đẹp Nhất” hiện nay của chúng tôi.
29+ Mẫu Hào Quang Trúc Chỉ Thờ Phật Đẹp Nhất
Ý nghĩa vầng hào quang của Đức Phật
Vầng hào quang sáng rực rỡ trên đỉnh đầu và sau lưng Phật là đặc trưng phân biệt quả vị trong Phật Giáo. Cảnh giới cao nhất của Phật Giáo là giác ngộ thành Phật. Ánh sáng quang minh phổ chiếu, Phật không những có vầng hào quang ở đầu mà còn có vầng hào quang sau lưng, tượng trưng đã đạt được cảnh giới giác ngộ. Quả vị cao thứ hai là Bồ Tát, Bồ Tát thì chỉ có vầng hào quang ở đầu, không có hào quang sau lưng. Nhưng trong hội họa Phật giáo thì có những vị Bồ Tát có cả vầng hào quang sau lưng. Tiếp đó là Thanh Văn, Hộ Pháp có quả vị sau Bồ Tát, chỉ những vị viên mãn đức hạnh mới có vầng hào quang ở đầu, biểu thị địa vị thần thánh của họ.
Hào quang Phật chính là biểu hiện của trí tuệ Như Lại. Trí tuệ thấy rõ thực tướng khắp mười phương thế giới, thấy rõ như thật toàn thể pháp giới. Ánh hào quang của Đức Phật chiếu ra vượt khỏi nhị biên, có năng lượng siêu thức hàm tàng cả trí tuệ và từ bi. Đức Phật không còn bị vô minh, vọng tưởng che phủ, toàn thân Ngài thanh tịnh trong suốt nên có khả năng phóng ra ánh sáng.
Hào quang Phật là quang năng tự tính của đấng giáo chủ cõi tâm linh. Và đó cũng là thể tính của mọi chúng sinh sẽ thành tựu trong tương lai, trên con đường thăng hoa tâm linh. Hào quang Phật rất thanh tịnh, trong sáng, biến hóa nhiệm màu không thể nghĩ bàn và chúng ta ai cũng có sẵn Phật quang ở trong tâm. Hào quang Phật luôn là chất liệu tâm linh hàng đầu, là định hướng sống bền vững nhất của loài người.
Câu chuyện về hào quang Đức Phật
Đức Phật cứu cậu bé niệm “Nam Mô Phật”
Vị trưởng lão tên Tài Đức ở thành Xá Vệ có một cậu con trai mới lên năm tuổi đã được cha dạy cho niệm câu “Nam Mô Phật”. Cậu bé rất khôn ngoan, được cha dạy xong là biết niệm “Nam Mô Phật” ngay, nên được cha hết mực thương yêu.
Ngoài đồng hoang có một con quỷ vương đang bị đói khát bức bách. Một hôm thình lình nó đến nhà của trưởng giả, nó nhìn thấy cậu con trai nhỏ liền bắt cóc rồi bỏ chạy về đồng hoang. Quỷ vương tính xé thịt cậu bé ra ăn ngay, nhưng cậu bé niệm lên câu “Nam Mô Phật”, làm quỷ vương đột nhiên bị tê liệt, không cách nào chạm tới cậu bé được. Cặp mắt hung ác của quỷ vương bốc lên lửa dữ, làm cậu bé vô cùng sợ hãi, nhưng miệng vẫn không ngừng niệm “Nam Mô Phật”. Cậu bé cứ không ngừng niệm “Nam Mô Phật” trong một thời gian dài, khiến quỷ vương không thể nào ăn được thịt cậu bé như ý muốn. Điều này làm quỷ vương càng lúc càng nóng giận và hung hãng.
Đức Phật với thiên nhĩ thông, từ xa đã nghe tiếng cậu bé niệm Danh Hiệu của Ngài để cầu cứu. Ngài lập tức dùng thần thông tới chỗ đồng hoang, phóng hào quang trắng sáng bảo vệ cậu bé. Quỷ vương thấy Đức Phật quang lâm nhưng không sợ hãi, mà ngọn lửa sân khuể trong lòng nó lại càng tăng lên khi thấy hào quang của Đức Phật. Nó nổi xung thiên lồng lộn lên, nó nhấc một tảng đá lớn định ném tới Đức Phật. Nhưng Đức Phật đã nhập Hỏa Quang Tam Muội dùng lửa đốt sạch cánh đồng hoang. Ngọn lửa mãnh liệt ngùn ngụt cháy chiếu thấu suốt cả quả đất. Trong ánh sáng đó còn hiện vô số ức hóa Phật, nhưng quỷ vương vẫn không hề tàm quý, không chịu hàng phục.
Có một vị thần Kim Cang thấy quỷ vương như vậy thì vô cùng tức giận. Thần Kim Cang một tay cầm chày Kim Cương, một tay múa cây kiếm bén lớn hướng tới quỷ vương phác cử chỉ chém xuống đầu nó. Quỷ vương thấy thế sợ quá, ôm lấy cậu bé và quỳ mọp xuống trước mặt Đức Phật mà nói rằng: “Thế Tôn! Xin Ngài từ bi cứu mạng con với”. Đức Phật như người cha hiền lành, dù gặp người ác hơn thế chỉ cần biết chân thành sám hối, thì Ngài cũng sẵn sàng tha thứ. Thần Kim Cang liền ra lệnh cho quỷ vương: “Ngươi còn chờ gì mà chưa quy y Phật, Pháp, Tăng? Nếu chưa quy hàng ta sẽ đập ngươi tan nát như bụi, hiểu chưa?”
Quỷ vương sợ sệt chắp tay thưa với Đức Phật rằng: “Thế Tôn! Từ trước tới giờ con ăn thịt, uống máu người, bây giờ ngài dạy con từ nay về sau không được giết người nữa thì con lấy gì mà ăn đây?“. Đức Phật nói: “Quỷ vương đừng lo chuyện ấy. Nếu ngươi giữ được giới, không giết hại thì Ta sẽ dặn đệ tử của Ta bố thí thức ăn cho ngươi, từ giờ cho đến lúc pháp của Ta diệt tận, dựa vào sức Phật ngươi sẽ được no đủ“. Quỷ vương nghe thế rất vui mừng, lập tức thọ nhận tam quy, ngũ giới, rồi hướng về Thần Kim Cang nói: “Nhờ Đại Đức chỉ giáo cho con, nên con mới được uống nước cam lồ, được Pháp vị vô thượng, bỏ đường mê lầm mà quay về nẻo chính“.
Cậu bé đã được Đức Phật cứu thoát nhờ niệm “Nam Mô Phật”. Vị trưởng giả Tài Đức vô cùng mừng rỡ ôm con tới xin xuất gia theo Phật. Từ đó trưởng giả tu hành rất tinh tiến, tín tâm được kiên cố thêm.
Câu chuyện bào thai chắp tay
Một lần Đức Phật đang thuyết pháp Đại Thừa tại thành Vương Xá. Trong đạo tràng của Ngài có một nười đàn bà hiền đức, tài giỏi tên là Tỳ Lâu. Bà Tỳ Lâu trong gia đình là người vợ đảm đang, người mẹ hiền, ngoài xã hội bà được tiếng là một người đàn bà gương mẫu. Nên lời nói của bà Tỳ Lâu có hiệu lực rất lớn khi lên tiếng kêu gọi ai làm chuyện gì đó.
Trong ngày thuyết pháp của Đức Phật tại thành Vương Xá. Bà Tỳ Lâu đã tập họp được hàng trăm, hàng ngàn người đàn bà khác đến nghe pháp. Tuy những người đó toàn là người sơ phát tâm, nhưng ai cũng bắt chước Tỳ Lâu chắp tay chăm chú nghe thuyết pháp. Đức Phật đang giảng kinh bỗng ngừng lại hướng về tôn giả A Na Luật đang ngồi giữa đại chúng mà hỏi: “A Na Luật đã thấy được chuyện gì? Có thấy điều chi đặc biệt và lạ lùng không?”. Tôn giả thấy Đức Phật hỏi, liền đứng dậy cung kính trả lời: “Bạch Thế Tôn! Mọi người yên tịnh lắng nghe pháp âm của Phật thì đương nhiên tự động chắp tay kính cẩn lắng nghe. Con nay lại thấy thai nhi mà tín nữ Tỳ Lâu đang mang trong lòng mà cũng chắp tay nghe pháp, con rất lấy làm lạ“.
Quả Thật bà Tỳ Lâu lúc ấy đang mang thai một bé gái. Bé gái trong bào thai hấp thụ tính hiền hòa của mẹ, cộng với thiện duyên của chính mình nên tuy vẫn còn trong bụng mẹ mà cũng biết chắp tay nghe kinh. Tôn giả A Nan Luật là vị A La Hán đã chứng đắc được thiên nhãn thông. Nên bất cứ vật gì dầu trong dầu ngoài Ngài cũng đều có thể thấy hết.
Đức Phật lại nói: ” Lành thay! Lành thay! Trong số đông những vị A La Hán ở đây, A Na Luật ông là người có thiên nhãn thông. Có thể thấy được những việc hiếm có mà người khác chưa từng thấy. Đó là điều khiến ông hơn tất cả mọi người. A Na Luật, ông thấy không, trong mười phương thế giới, chim bay thú chạy, ngay cả trong loài côn trùng, chưa hề có một đứa bé còn trong bụng mẹ mà đã biết chắp tay nghe kinh như mẹ. Đó chính là vì âm thanh viên mãn của Phật có năng lực thấu suốt qua tất cả mọi cảnh giới. Khiến cho chúng sinh nào nghe được cũng đều phải chắp tay cung kính“.
Đức Phật nói xong, Ngài muốn cho mọi người hiểu biết một chút về những sự kiện hy hữu trên thế giới. Nên từ thân Ngài phóng ra ánh sáng làm cho bốn phương tám hướng, từ trên xuống dưới tất cả đều được chiếu sáng không có gì trở ngại. Trong ánh hào quang sáng chói của Đức Phật, không còn sự phân biệt giữa trong và ngoài, mọi nơi đều y như nhau, như thể được chiếu rọi bởi một tấm kính lớn đằng trước, không có vật gì có thể che giấu được.
Ngay lúc đó, người trong pháp hội nghe kinh, nương nhờ pháp lực của Đức Phật, thấy được những gì từ trước đến nay họ chưa hề thấy, nên ai nấy đều vui mừng vô kể. Bà Tỳ Lâu lúc đó cũng biết được rằng đứa con đang mang trong bụng của mình sắp sửa ra đời. Vì thế bà bèn đứng dậy, đảnh lễ với Đức Phật rồi lui xuống phía dưới. Và ngay lúc đó bà Tỳ Lâu đã hạ sinh một bé gái.
Khi đứa bé chào đời, trong không trung vang lên thiên nhạc tuyệt vời, và những đóa hoa ngũ sắc lả tả rơi xuống. Rất nhiều người đàn bà vội vàng mang tới một bộ y phục mới phủ lên thân thể hài nhi, để đứa bé không bị lõa thể khi đối diện với đại chúng. Vị đệ tử thượng thủ của Đức Phật là tôn giả Xá Lợi Phất thấy mọi chuyện xảy ra như thế bèn đứng dậy hỏi rằng: “Bạch Thế Tôn! Nữ hài nhi này từ quốc độ nào đến? Kiếp trước đã tạo phước báo nào mà được chào đời giữa pháp hội cao quý này?“.
Đức Phật từ mẫn giảng cho tôn giả Xá Lợi Phất và đại chúng biết về lai lịch của đứa bé: “Đứa bé sơ sinh này đến từ một nơi cách đây rất xa ở phía Đông Nam. Nước ấy tên là Diêm Phù Đàn. Rất nhiều kiếp về trước, cô luôn luôn cúng dường Phật và trai tăng. Và còn phát nguyện tương lai sẽ sinh ra đời nơi pháp hội của Phật đang thuyết Pháp. Vì thế nên kiếp này cô được như nguyện và chào đời tại nơi đây“. Pháp âm của Phật cùng tất cả những điềm lành lúc đứa bé ra đời làm cho thính chúng vô cùng hoan hỉ. Họ phát nguyện đời đời kiếp kiếp quy y Thánh Pháp, cứu độ chúng sinh.